Duyệt theo Tác giả "Hồ, Tá Giáp"
Đang hiển thị 1 - 7 của tổng số 7 kết quả
Số kết quả/trang
Tùy chọn sắp xếp
Tài liệu Ô nhiễm của gene kháng thuốc (ARGs) trong bùn bể tự hoại ở Việt Nam(Đại học Nguyễn Tất Thành, 2018) Nguyễn, Trà Mi; Hồ, Tá Giáp; Nguyễn, Xuân Bình; Nguyễn, Hồ Các DungNghiên cứu này nhằm mục tiêu khảo sát sự tồn tại của 12 ARGs kháng lại 9 loại kháng sinh trong bùn bể tự hoại tại 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Trong nghiên cứu này, chúng tôi thu thập 26 mẫu bùn phân ở Hà Nội và 24 mẫu ở thành phố Hồ Chí Minh. Sự hiện diện của các ARG đã được kiểm tra theo hai hướng: (1) tách chiết DNA trực tiếp từ các mẫu bùn, sau đó tiến hành PCR khảo sát sự hiện diện của ARGs; (2) phân lập E. coli từ mẫu bùn, tách chiết DNA E. coli để khảo sát sự hiện diện của ARGs. Kết quả xác định gene kháng thuốc trên E. coli tại Hà Nội và Tp.HCM tương ứng là 0 và 44% kháng Streptomycin; 50% và 40% kháng Sulfonamide; 0 và 4% kháng Erythromycin; 0 và 65% kháng Chloramphenicol; 100% và 98% kháng Tetracycline; 50% và 16% kháng Trimethoprim; 100% và 30% kháng β-Lactams; 0 và 0 kháng Gentamycin; không có gene kháng Quinolone.Tài liệu Phân lập các chủng Vibrio trên tôm bệnh có khả năng mang gene sinh Polysacharide monooxygenase : Báo cáo Tổng kết đề tài Khoa học và Công nghệ cấp cơ sở năm 2022 - 2023(Viện kỹ thuật công nghệ cao NTT, 2023) Hồ, Tá GiápPhân lập và định danh các loài Vibro trên tôm bệnh có chứa gene mã hóa Polysaccharide monooxygenaseTài liệu Phát hiện nhanh streptomycin bằng DNA aptamer và hạt nano vàng(Đại học Nguyễn Tất Thành, 2018) Nguyễn, Lương Hiếu Hòa; Ông, Bỉnh Nguyên; Trần, Lê Phương Duy; Hồ, Tá Giáp; Lê, Phương Uyên; Nguyễn, Hoàng DũngStreptomycin là một trong những kháng sinh thuộc nhóm aminoglycoside được sử dụng phổ biến trong điều trị các bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn gram âm ở gia súc. Tuy nhiên, việc lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi đã dẫn đến sự tồn dư lượng thuốc kháng sinh trong thực phẩm và gây nên những tác dụng phụ nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Vì vậy, việc thiết lập một phương pháp nhanh, nhạy, đơn giản và chính xác giúp phát hiện dư lượng kháng sinh trong mẫu thực phẩm là điều hết sức cần thiết. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xây dựng qui trình phát hiện nhanh streptomycin dựa trên aptamer đặc hiệu và hạt nano vàng. Theo đó, khi có sự hiện diện streptomycin, liên kết đặc hiệu giữa DNA aptamer và streptomycin sẽ cạnh tranh với liên kết giữa aptamer và các hạt nano vàng, từ đó làm giảm tính ổn định của hạt nano vàng trong dung dịch muối và thể hiện bằng sự thay đổi màu sắc của dung dịch nano vàng. Điều này có thể được nhìn thấy bằng mắt thường hoặc máy đo quang phổ. Giới hạn phát hiện streptomycin của phương pháp bằng máy đo quang phổ được xác định là 250nM và có độ đặc hiệu cao. Kết quả này cho thấy tiềm năng phát triển các sản phẩm phát hiện nhanh dư lượng kháng sinh trong thực phẩm trong tương lai.Tài liệu Tạo dòng gene mã hóa enzyme Sphingosine 1-phosphate Lyase ở người (SGPL1)(Trường Đại học Nguyễn Tất Thành, 2021) Vũ, Minh Thiết; Hồ, Tá Giáp; Nguyễn, Hoàng DanhSphingosine 1-phosphate (S1P) là phân tử lipid có hoạt tính sinh học quan trọng trong tế bào và cơ thể như điều khiển phân bào, vận động của các tế bào miễn dịch và điều hòa sinh mạch. S1P lyase là enzyme phân giải sphingosine 1-phosphate (S1P) bằng cách cắt chuỗi acyl ở vị trí carbon số 2 và 3, để tạo thành hexdecenal và ethanolamin phosphate, vì thế enzyme này là một trong những yếu tố tham gia điều hòa lượng S1P trong tế bào và cơ thể. Trong tế bào động vật, SGPL1 còn phân hủy một cơ chất khác là dihydro-S1P (dhS1P), một đồng phân no của S1P được tạo ra trong quá trình tổng hợp mới sphingolipid khởi đầu bằng quá trình cô đông hóa serin và palmitoyl-CoA. Đến nay, dhS1P và S1P vẫn được sử dụng thay thế cho nhau với giả định cả hai cơ chất này đều đáp ứng hoàn toàn như nhau với hoạt tính enzyme của SGPL1. Mặc dù vậy, hai cơ chất này thể hiện nhiều vai trò sinh học trái ngược nhau và đáp ứng khác nhau với các tác nhân môi trường và thuốc điều trị ung thư. Để tìm câu trả lời chính xác cho mức độ đặc hiệu của SPGL1 lên hai cơ chất kể trên, chúng tôi tiến hành tạo dòng trình tự mã hóa cho SGPL1 của người vào trong hệ thống biểu hiện vi khuẩn, vector pQ60. Vector tái tổ hợp mang hSGPL1 này sẽ cung cấp nguyên liệu để biểu hiện và tinh sạch enzyme SGPL1 phục vụ cho các nghiên cứu hoạt tính và động học enzyme lên hai cơ chất dhS1P và S1P trong tương lai.Tài liệu Tạo dòng gene mã hóa Polysaccharide Monooxygenase (PMO) trên vector pEX2B hướng tới biểu hiện trong Aspergillus oryzae : Báo cáo tổng kết đề tài NCKH dành cho Cán bộ - Giảng viên 2019 [Số hợp đồng: 2019.01.07/HĐ-KHCN](Trường ĐH Nguyễn Tất Thành (Viện Kỹ thuật Công nghệ cao NTT), 2019) Hồ, Tá GiápTài liệu Xây dựng phương pháp phát hiện nhanh Clostridium Perfringens bằng kỹ thuật khuếch đại Recombinase polymerase amplification (RPA) : Báo cáo tổng kết đề tài NCKH dành cho cán bộ - giảng viên 2020 [Số hợp đồng: 2020.01.03/HĐ-KHCN](Đại học Nguyễn Tất Thành (Viện Kỹ thuật Công nghệ cao NTT), 2020) Trần, Hồng Diễm; Trần, Thị Hậu; Hồ, Tá GiápTrình bày nêu ra các phương pháp phát hiện nhanh Clostridium Perfringens như: Phương pháp xác định trình tự các thành phần phản ứng RPA, phương pháp nuôi cấy và tăng sinh chủng vi khuẩn Clostridium Perfringens trong môi trường (TSB), phương pháp tách chiếc ADN, phương pháp PRC.Từ đó nghiên cứu và cho ra kết quảTài liệu Đa dạng di truyền SARS-CoV-2(Trường Đại học Nguyễn Tất Thành, 2022) Phan, Ngọc Hân; Đỗ, Hoàng Đăng Khoa; Hồ, Tá GiápSARS-CoV-2 đang lây lan nhanh chóng gây nguy hại về tính mạng, sức khỏe và kinh tế toàn cầu. Đến đầu năm 2021, các chiến lược tiêm vaccine COVID-19 và thuốc hỗ trợ điều trị đã được nhiều quốc gia thực hiện và nghiên cứu, song song đó là sự biến đổi di truyền để kháng lại thuốc và vaccine của SARS-CoV-2 nhằm tồn tại và lây nhiễm. Các biến chủng SARS-CoV-2 mới và nguy hiểm liên tục được công bố bởi WHO như Alpha, Beta, Gamma, Delta, Eta, Iota, Kappa, Lambda, Mu và nhiều biến chủng chưa được đặt tên. Do đó, nghiên cứu về phân tích đa dạng di truyền là rất cần thiết để có bức tranh toàn cảnh về sự lây lan của các biến chủng, nhằm phục vụ cho nghiên cứu dịch tễ và các nghiên cứu di truyền SARS-CoV-2 khác. Kết quả nghiên cứu này cho thấy biến chủng A có thể là khởi nguồn của các biến chủng khác. Chúng tôi cũng đã vẽ ra bốn nhánh phát sinh cho bốn nhóm biến thể nguy hiểm. Biến thể Gamma có sự tương đồng về trình tự với biến thể Eta. Biến thể Beta thì có sự tương đồng cao với biến thể Iota và Mu. Biến thể Delta có quan hệ họ hàng với biến thể Kappa. Biến thể Alpha có quan hệ gần gũi với biến thể Zeta và Lambda.